CHUYÊN ĐỀ:
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN NGỮ VĂN
GÓP PHẦN HẠN CHẾ HS YẾU, KÉM
I/ Thực trạng của vấn đề:
Là một giáo viên Trung học cơ sở, lại trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, một môn học khá trừu tượng, được ít học sinh yêu thích. Và bản thân tôi lại biết rằng : “ Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa tâm hồn” (Uyliam Batơ Dit). Thế nhưng, với thực trạng đáng buồn là khi khảo sát chất lượng đầu năm của khối lớp 6 ( có thể kể luôn các khối lớp còn lại) cho thấy tỉ lệ học sinh yếu kém nhiều , rất nhiều bài sai chính tả, không biết viết hoa tên riêng ; rất nhiều bài văn từ đầu đến cuối bài không có dấu chấm câu hoặc vả dấu câu dùng một cách tùy tiện không theo quy luật nào; đoạn văn thì viết câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc ngữ pháp; ý diễn đạt lan man; nhiều câu văn của học sinh khi đọc lên lại khiến người nghe không hiểu các em viết gì … Từ thực trạng trên cho thấy học sinh còn lơ mơ về kiến thức bộ môn, cho nên rất ít học sinh biết rung động với những tác phẩm văn chương ; nhiều học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn, các em học chủ yếu để có điểm…
Đứng trước thực trạng trên, tôi luôn trăn trở làm thế nào để tạo nguồn hứng thú học văn nơi các em. Tôi mơ ước tôi sẽ là người “khơi dậy ngọn lửa tâm hồn”nơi bản thân học sinh, chứ không phài một kẻ “ nhồi nhét kiến thức” vào bộ não non nớt của các em.Từ những băn khoăn đó, tôi luôn tìm tòi nhiều biện pháp thích hợp để tạo hứng thú học tập nơi học sinh nhằm hạn chế học sinh yếu, kém.
II. Nội dung chuyên đề:
1. Tiến trình thực hiện :
Tôi trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn được gần mười bảy năm, với kinh nghiệm ít ỏi cộng với việc tham khảo một số ý kiến từ đồng nghiệp, bản thân tôi đã có được một số biện pháp cụ thể nhằm khơi gợi hứng thú học môn Ngữ văn ở phía học sinh, cụ thể như sau :
a/ Đổi mới trong khâu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới:
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới chính là bước khởi động của một quá trình lĩnh hội tri thức mới trong mỗi giờ lên lớp của giáo viên. Giáo viên muốn học sinh tự giác tìm tòi khám phá tri thức, trước tiên phải có cách hướng dẫn chuẩn bị bài mới cụ thể, hơn thế nữa có thể khơi gợi sự thích thú về nội dung bài sắp học, gợi ra cho học sinh một tâm thế háo hức chuẩn bị cho tiết học mới. Để làm được điều đó tôi đã kết hợp cách làm cũ mà nhiều giáo viên khác đã thực hiện rồi kết hợp với một số cách làm mới của bản thân. Cụ thể, tôi đã thực hiện như sau :
Đối với việc hướng dẫn học sinh đọc trước ở nhà : Ngoài việc yêu cầu học sinh đọc trước văn bản- chú thích, tôi phân nhóm khoảng 2-3 học sinh (tùy bài) chịu trách nhiệm đọc diễn cảm, hoặc đọc sắm vai cho cả lớp thưởng thức (đối với văn học) ; đọc kĩ ví dụ mẫu (đối với phân môn Tập làm văn- Tiếng Việt) kết hợp đến giờ trả bài miệng tôi hỏi một số câu hỏi nhỏ có liên quan đến bài mới để nhận biết mức độ chuẩn bị bài mới ở nhà của các em và cho điểm khuyến khích. Công việc này được giao trách nhiệm cụ thể và có kiểm tra chắc chắn các em sẽ tự giác thực hiện.
Đối với việc hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi : Tôi cụ thể hóa câu hỏi trong Sách giáo khoa ( có thể chia nhỏ câu hỏi để phù hợp với trình độ của học sinh, nhằm tránh học sinh ngại soạn bài do câu hỏi có tính chất phức tạp, khó hiểu).
Phát huy năng khiếu của mỗi học sinh, cụ thể khuyến khích và giao nhiệm vụ hs diễn kịch, đọc sắm vai, làm thơ, vẽ tranh sao cho phù hợp với mỗi bài dạy mới.
b / Tăng cường sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học (ĐDDH), ứng dụng công nghệ thông tin nhằm khơi gợi hứng thú học tập nơi học sinh :
Tôi nghĩ rằng sử dụng đồ dùng dạy học (ĐDDH) là một trong những yếu tố mang lại thành công cho tiết dạy và học. Thứ nhất vì tâm lí của học sinh hiếu động tò mò ,các em thích quan sát hình ảnh lạ, đẹp, hơn là những câu chữ hiện lên trên bảng, lúc này ĐDDH sẽ là hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn. Thứ hai, phương tiện- ĐDDH giảm nhẹ công việc của người giáo viên và giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện, đồ dùng dạy học, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo trong công tác giảng dạy, làm cho học sinh có sự hứng thú để khơi gợi sự tìm tòi, khám phá tri thức mới.
Nhưng hiện tại, ĐDDH của môn Ngữ văn được cấp về rất ít, ngoài sử dụng những bộ tranh ảnh có sẵn, tôi mạnh dạn tự trang bị cho mình những ĐDDH cần thiết trong mỗi giờ lên lớp.
Chẳng hạn về tranh ảnh:
Đối với những bài học có sẵn tranh vẽ trong SGK, tôi dựa vào đó vẽ lại vào giấy, tô màu phù hợp. Cách làm đơn giản như thế là tôi đã có một bức vẽ hoàn chỉnh về tác phẩm mình đang dạy . Tuy bức vẽ không lạ với các em (vì giống với hình vẽ từ SGK) nhưng cách làm này đã gây sự thu hút không nhỏ đến học sinh. Đối với những bài chưa có tranh cấp về, với chút khả năng vẽ tranh của bản thân, tôi tìm hình ảnh trên mạng và vẽ theo. Những tiết học như thế, tôi nhận thấy các em vui hơn, phấn khởi hơn nhiều. Đôi khi để tạo ấn tượng mới từ các em ,tôi không trực tiếp vẽ mà khuyến khích các em vẽ, kết quả là các em hưởng ứng tích cực. Mỗi lần khuyến khích như vậy, tôi đã có được từ 3 đến nhiều hơn những bức tranh các em vẽ. Những tranh vẽ nghiêm túc đều đạt điểm cộng cho cột kiểm tra miệng. Ngoài ra tôi còn công bố với cả lớp về bức tranh đẹp nhất
c.) Tạo một số trò chơi phù hợp trong tiết học :
Học sinh là lứa tuổi hiếu động, ham chơi. Dựa vào đặc điểm tâm sinh lí này, tôi mạnh dạn đưa vào tiết học một số trò chơi nhằm giúp học sinh hứng thú trong giờ học. Chẳng hạn:
* Trò chơi “Đuổi hình bắt chữ”:
Cách thức thực hiện: Giáo viên vẽ một số hình ảnh đơn giản có liên quan đến bài học vào phía sau tờ lịch ( cho đỡ tốn kém tiền mua giấy), đến cuối tiết học dán tranh vẽ trên bảng, học sinh quan sát và tìm đáp án từ hình vẽ. ( Ví dụ: Trò chơi này được sử dụng rất hiệu quả khi dạy các bài thuộc phân môn Tiếng Việt. Cụ thể bài “Thành ngữ” (Ngữ văn 7- tập một), học sinh nhìn một số hình vẽ đơn giản do giáo viên chuẩn bị và đoán trúng thành ngữ.
* Trò chơi “Đối đáp sóng đôi”:
Cách thức thực hiện: Ở cuối tiết học hoặc cuối một phần nội dung bài học, tôi đã sử dụng trò chơi này để kiểm tra và củng cố kiến thức của học sinh. Trò chơi này thực hiện rất đơn giản, giáo viên không cần chuẩn bị gì trước. Giáo viên chọn bất kì một cặp đôi có sức học ngang nhau, yêu cầu hai em thay phiên đặt câu hỏi cho bạn trả lời ( Câu hỏi xoay quanh yêu cầu của giáo viên về nội dung bài đang học). Bạn chiến thắng sẽ được tập thể tuyên dương, bạn còn lại sẽ rút kinh nghiệm và chú ý hơn trong nội dung phần học sau để tiếp tục đối đáp với bạn khác. Học sinh nào có thành tích “chiến thắng” nhiều giáo viên ghi điểm khuyến khích.
d) Điều đặc biệt là giáo viên phải là người khơi nguồn cảm hứng nơi học sinh.
Có thể khẳng định, dù giáo viên có chuẩn bị chu đáo đến đâu nếu không khí ban đầu của lớp học nặng nề, uể oải… thì chắc chắn “ hứng thú học tập” của học sinh mà bất kì giáo viên nào cũng mong có được sẽ không xuất hiện. Để học sinh thực sự say mê học tập, người giáo viên có thể tạo sinh khí bằng việc tạo cảm hứng học tập ngay từ đầu tiết học, bằng cách khơi gợi tâm lí thoải mái cho học sinh.
Để làm được điều đó, ban đầu tôi cố gắng tạo không khí thân thiện với các em. Tôi kể một câu chuyện hài ngắn gọn hoặc hỏi thăm sức khỏe các em, chung qui là để các em cười thoải mái, cười thân thiện , từ đó tạo tâm thế hưng phấn cho tiết học. Muốn thực hiện được điều này, người giáo viên phải đặt mình vào vị trí của các em mà hiểu tâm sinh lí lứa tuổi, từ đó điều chỉnh thái độ sao cho phù hợp trước thái độ chưa nghiêm túc đón nhận giờ học của học sinh.
Ngoài ra để có thể truyền ngọn lửa nhiệt tình cho học sinh trong giờ giảng, tôi còn rất chú trọng đến cách giới thiệu bài mới. Vì khi bắt đầu một bài mới, học sinh có thể thắc mắc trong lòng “ học làm gì ?” “ bài học này có liên quan gì đến bài trước ?”. Chính vì vậy, tôi luôn dẫn dắt học sinh từ bài trước sang bài mới, từ một thực tế đến bài mới hoặc từ một vướng mắc đến bài mới thì chắc chắn học sinh sẽ cảm thấy hứng thú hơn và muốn tìm hiểu nội dung của bài mới là gì.
2. Mức độ ảnh hưởng:
Với những biện pháp được thực hiện trong chuyên đề , bản thân nhận thấy đề tài này rất dễ áp dụng cho tất cả các đối tượng từ học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu, kém và học sinh ở các khối lớp 6,7,8,9.
Đề tài của tôi cũng có thể đem áp dụng cho các môn khác bởi vì bất kì môn học nào khi dạy cũng cần thực hiện các biện pháp như trên nhưng tất cả đều phụ thuộc vào sự nhiệt tình, khả năng sáng tạo và cái “tâm” của người giáo viên.
Ngữ văn là một môn học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, người dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, năng lực của học sinh nhằm giúp các em lĩnh hội được những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ năng lực của bản thân.
Vai trò của giáo viên là truyền đạt tri thức, là người hướng dẫn, người cố vấn cho học sinh trong việc học tập. Tinh thần hứng thú cũng như tính tích cực nhận thức của bản thân các em càng cao thì những kiến thức được lĩnh hội càng sâu sắc và vững chắc hơn. Từ đó chất lượng học tập của cá em sẽ nâng cao, hạn chế được kết quả yếu , kém.
Vĩnh Thạnh Trung, ngày 02 tháng 03 năm 2021
Người viết
Trương Thị Ánh Nguyệt